Luật Nuôi con nuôi ra đời đánh dấu một bước tiến quan trọng
trong hệ thống luật pháp về nuôi con nuôi của Việt Nam. Luật này quy định
nguyên tắc, điều kiện nuôi con nuôi; thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết việc
nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi, con nuôi và cha mẹ đẻ, trách
nhiệm của cơ quan, tổ chức trong việc nuôi con nuôi. Việc
nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích
tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình.
Nguyên tắc giải quyết việc
nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia
đình gốc, và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con nuôi
và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không
trái pháp luật và đạo đức xã hội, tăng cường các biện pháp bảo đảm cho trẻ em làm con nuôi trong
nước; việc cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài chỉ là biện pháp thay thế cuối
cùng sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thể thu xếp được cho
trẻ em làm con nuôi trong nước.
Trong thực tế, trong quá trình triển khai thi hành Luật Nuôi con
nuôi, tình hình đăng ký nuôi con nuôi theo quy định của luật chưa có sự chuyển
biến rõ rệt. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này được xác định là do tâm lý
chung của người Việt Nam e ngại, không muốn công khai mối quan hệ cha mẹ nuôi
và con nuôi; do nhận thức đơn giản, ý thức chấp hành pháp luật của người dân
chưa cao. Đặc biệt tại các tỉnh miền núi như Lai Châu, Sơn La, Điện Biên… ý
thức của người dân về pháp luật nuôi con nuôi còn rất hạn chế, chủ yếu chịu ảnh
hưởng và bị chi phối nhiều bởi các phong tục tập quán của dân tộc, dòng họ.
Việc thực hiện thủ tục nuôi con nuôi chủ yếu theo phong tục tập quán (như buộc
chỉ cổ tay, cúng ma…) hoặc thường là sự thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ
nuôi mà không đăng ký trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này làm ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác đăng ký con nuôi thực tế, tạo điều kiện
cho một số đường dây lợi dụng xin con nuôi để buôn bán trẻ sơ sinh... Trước
tình hình này, Bộ Tư pháp đã ban hành Kế hoạch triển khai đăng ký nuôi con nuôi
thực tế theo quy định của Luật Nuôi con nuôi. Trong đó, lưu ý các địa phương
đối với công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật phải được thực hiện
bằng nhiều hình thức phong phú, nội dung phù hợp; huy động sự tham gia của các
tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức đoàn thể địa phương vào công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật và thực hiện xuyên suốt trong quá trình triển khai
thực hiện Kế hoạch.
Việc
tuyên truyền phải đảm bảo cho người dân hiểu rõ mục đích, ý nghĩa của việc đăng
ký nuôi con nuôi, các quyền và nghĩa vụ của người nhận nuôi và người được nhận
làm con nuôi được pháp luật bảo vệ khi việc nuôi con nuôi được đăng ký trước cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Công tác rà soát, thống kê, báo cáo đánh giá thực
trạng nuôi con nuôi thực tế của cơ quan chức năng trên phạm vi toàn quốc phải
được thực hiện nghiêm túc, chính xác và thực hiện từ cấp cơ sở là UBND cấp xã.
Việc hướng dẫn lập hồ sơ và triển khai thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi đối
với các trường hợp nuôi con nuôi thực tế cần được tiến hành song song với quá
trình rà soát, thống kê về các trường hợp nuôi con nuôi thực tế tại địa phương,
không chờ đến khi thống kê rà soát xong mới thực hiện việc hướng dẫn lập hồ sơ
và đăng ký việc nuôi con nuôi đối với các trường hợp này. Cơ quan chức năng chỉ
thực hiện việc đăng ký nuôi con nuôi đối với các trường hợp đáp ứng đủ các điều
kiện theo quy định tại Điều 50 của Luật Nuôi con nuôi, cha mẹ nuôi/con nuôi có nguyện
vọng đăng ký nuôi con nuôi. Đối với các trường hợp nuôi con nuôi thực tế mà cha
mẹ nuôi chưa có/không có nguyện vọng đăng ký, thì không được ép buộc người dân
đăng ký. UBND cấp xã cần cử cán bộ tiếp xúc, tư vấn, động viên, giải thích cho
cha, mẹ nuôi về ý nghĩa của việc đăng ký nuôi con nuôi và vận động người dân tự
nguyện đăng ký việc nuôi con nuôi; không được công bố hoặc công khai các thông
tin về nuôi con nuôi thực tế của cá nhân, gây ảnh hưởng không tốt đến tâm lý và
cuộc sống bình thường của người dân.