Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều bí danh, bút danh khác) sinh ngày 19/5/1890 ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, mất ngày 2/9/1969 tại Hà Nội.

Người
sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một địa phương có truyền
thống yêu nước, anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sống trong hoàn cảnh đất nước
chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và thanh niên của Người
đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong trào đấu tranh chống thực
dân, Người sớm có chí đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước, đem lại tự do,
hạnh phúc cho đồng bào.
Với
tình cảm yêu nước thương dân vô hạn, năm 1911 Người đã rời Tổ quốc đi sang
phương Tây để tìm con đường giải phóng dân tộc.
Từ
năm 1912 - 1917, Nguyễn Tất Thành đến nhiều nước ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ,
châu Phi, sống hoà mình với nhân dân lao động, Người thông cảm sâu sắc cuộc
sống khổ cực của nhân dân lao động và các dân tộc thuộc địa cũng như nguyện
vọng thiêng liêng của họ. Người sớm nhận thức được cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc của nhân dân Việt Nam
là một bộ phận trong cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới. Người đã hoạt
động tích cực nhằm đoàn kết nhân dân các dân tộc giành tự do, độc lập.
Cuối
năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp hoạt động trong phong trào Việt kiều, phong
trào công nhân Pháp.
Năm 1919, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người Việt Nam yêu
nước tại Pháp gửi tới Hội nghị Vécxây (Versailles) bản yêu sách đòi quyền tự do
cho nhân dân Việt Nam và cũng là quyền tự do cho nhân dân các nước thuộc địa.
Dưới
ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và Luận cương của Lênin về vấn
đề dân tộc và thuộc địa, tháng 12 năm 1920 Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần
thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp và bỏ phiếu tán thành Đảng gia nhập Quốc tế III
(Quốc tế Cộng sản), trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản
Pháp. Từ một người yêu nước trở thành một người cộng sản, Người khẳng định:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”.
Năm
1921, cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp, Nguyễn Ái Quốc
sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa. Tháng 4-1922, Hội xuất bản báo “Người cùng
khổ” (Le Paria) nhằm đoàn kết, tổ chức và hướng dẫn phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc ở các thuộc địa. Nhiều bài báo của Người đã được đưa vào tác phẩm
“Bản án chế độ thực dân Pháp”, xuất bản năm 1925. Đây là một công trình nghiên
cứu về bản chất của chủ nghĩa thực dân, thức tỉnh và cổ vũ nhân dân các nước
thuộc địa đứng lên tự giải phóng.
Tháng
6-1923, Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Liên Xô, Người làm việc trong Quốc tế Cộng
sản. Tháng 10 năm 1923, tại Hội nghị Quốc tế Nông dân lần thứ nhất, Nguyễn Ái
Quốc được bầu vào Hội đồng Quốc tế Nông dân. Người là đại biểu duy nhất của
nông dân thuộc địa được cử vào Đoàn Chủ tịch của Hội đồng. Người tham dự Đại
hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V, Đại hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên lần thứ IV,
Đại hội Quốc tế Công hội đỏ. Người kiên trì bảo vệ và phát triển sáng tạo tư
tưởng của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, hướng sự quan tâm của Quốc
tế Cộng sản tới phong trào giải phóng dân tộc.
Tháng
11 năm 1924 với tư cách là Uỷ viên Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản và Uỷ viên
Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại
Quảng Châu Nguyễn Ái Quốc vừa làm việc trong đoàn cố vấn Bôrôđin của Chính phủ
Liên Xô bên cạnh Chính phủ Tôn Dật Tiên; vừa tìm hiểu và tiếp xúc với những
người Việt Nam
đang hoạt động tại đây. Nguyễn Ái Quốc đã chọn một số thanh niên Việt Nam yêu nước,
trực tiếp mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cách mạng. Các bài giảng của Người
được tập hợp in thành cuốn sách “Đường Kách mệnh” - một văn kiện lý luận
quan trọng đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam.
Năm
1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, ra tuần báo “ Thanh
niên ”, tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác -
Lênin về Việt Nam, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tháng
5 năm 1927, Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu đi Mátxcơva (Liên Xô), sau đó đi
Béclin (Đức), đi Brúcxen (Bỉ), tham dự phiên họp mở rộng của Đại hội đồng Liên
đoàn chống chiến tranh đế quốc, sau đó đi Ý và từ đây về châu Á.
Từ
tháng 7 năm 1928 đến tháng 11 năm 1929, Người hoạt động trong phong trào Việt
kiều yêu nước ở Xiêm (Thái Lan), tiếp tục chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Mùa
xuân năm 1930, Người chủ trì Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long, thuộc
Hồng Kông. Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều
lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam (Hội nghị của Đảng tháng 10 năm 1930 đổi
tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương), đội tiên phong của giai cấp công nhân và
toàn thể dân tộc Việt Nam. Ngay sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh
đạo Cao trào Cách mạng 1930 - 1931, đỉnh cao là Xô viết - Nghệ Tĩnh, cuộc tổng
diễn tập đầu tiên của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Tháng
6 năm 1931, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh bắt giam tại Hồng Kông. Mùa xuân
năm 1933, Người được trả tự do.
Từ
1934 đến 1938, Người nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc thuộc
địa tại Mátxcơva. Kiên trì con đường đã xác định cho cách mạng Việt Nam, Người tiếp
tục theo dõi chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước.
Tháng
10 năm 1938 Người rời Liên Xô về Trung Quốc, bắt liên lạc với tổ chức Đảng
chuẩn bị về nước.
Ngày
28 tháng 1 năm 1941, Người về nước sau hơn 30 năm xa Tổ quốc.
Tháng
5-1941, Người triệu tập Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
quyết định đường lối cứu nước trong thời kỳ mới, thành lập Việt Nam độc lập
đồng minh (Việt Minh), tổ chức lực lượng vũ trang giải phóng, xây dựng căn cứ
địa cách mạng.
Tháng
8-1942, lấy tên Hồ Chí Minh, Người đại diện cho Mặt trận Việt Minh và Phân hội
Việt Nam thuộc Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược sang Trung Quốc tìm sự liên minh
quốc tế, cùng phối hợp hành động chống phát xít trên chiến trường Thái Bình
Dương. Người bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam trong các
nhà lao của tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian một năm 14 ngày bị tù, Người đã
viết tập thơ “Nhật ký trong tù” với 133 bài thơ chữ Hán. Tháng 9-1943, Người
được trả tự do.
Tháng
9-1944, Người trở về căn cứ Cao Bằng. Tháng 12-1944, Người chỉ thị thành lập
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt
Nam.
Cuộc
chiến tranh thế giới thứ II bước vào giai đoạn cuối với những thắng lợi của
Liên Xô và các nước Đồng minh. Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh rời Cao Bằng về Tân
Trào (Tuyên Quang). Tại đây theo đề nghị của Người, Hội nghị toàn quốc của Đảng
và Đại hội Quốc dân đã họp quyết định Tổng khởi nghĩa. Đại hội Quốc dân đã bầu
ra Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ
Chí Minh làm Chủ tịch.
Tháng
8-1945, Người lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Người đọc “Tuyên ngôn độc
lập”, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Người trở thành vị Chủ
tịch đầu tiên của nước Việt Nam độc lập.
Ngay
sau đó, thực dân Pháp gây chiến tranh, âm mưu xâm chiếm Việt Nam một lần
nữa. Trước nạn ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi cả nước đứng lên bảo vệ
độc lập, tự do của Tổ quốc với tinh thần: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Người đã khởi
xướng phong trào thi đua yêu nước, cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân Việt
Nam tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình
là chính, từng bước giành thắng lợi.
Tháng
2-1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng nhằm đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Tại Đại hội Người được bầu làm
Chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến
thần thánh của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành thắng
lợi to lớn, kết thúc vẻ vang bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954),
giải phóng hoàn toàn miền Bắc.
Từ
năm 1954, Người cùng Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất
Tổ quốc.
Đại
hội Đảng Lao động Việt Nam
lần thứ III, họp vào tháng 9 năm 1960, Người khẳng định: “Đại hội lần này là
Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình, thống nhất
nước nhà”. Tại Đại hội Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương
Đảng.
Năm
1964, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân đánh phá miền Bắc
Việt Nam.
Người động viên toàn thể nhân dân Việt Nam vượt mọi khó khăn gian khổ,
quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Người nói: “Chiến tranh có thể kéo dài 5
năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí
nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ ! Không có gì
quí hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất
nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”.
Từ
năm 1965 đến tháng 9-1969, cùng với Trung ương Đảng, Người tiếp tục lãnh đạo
nhân dân Việt Nam thực hiện sự nghiệp cách mạng trong điều kiện cả nước có
chiến tranh, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thực
hiện thống nhất đất nước.
Trước
khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho nhân dân Việt Nam bản Di chúc lịch
sử, căn dặn những việc nhân dân Việt Nam phải làm để xây dựng đất nước
sau chiến tranh. Người viết: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn
Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách
mạng thế giới”.
Thực
hiện Di chúc của Người, toàn dân Việt Nam đã đoàn kết một lòng đánh thắng cuộc
chiến tranh phá hoại bằng máy bay B52 của đế quốc Mỹ, buộc Chính phủ Mỹ phải ký
Hiệp định Pari ngày 27-1-1973, chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội
Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Mùa
xuân năm 1975, với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân Việt Nam đã hoàn
thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thực hiện được mong
ước thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người đã vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, sáng
lập Đảng Mác - Lênin ở Việt Nam, sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam,
sáng lập lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà (nay là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Người luôn luôn gắn cách
mạng Việt Nam
với cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội. Người là tấm gương đạo đức cao cả, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, vô cùng khiêm tốn, giản dị.
Năm
1987, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) đã tôn vinh
Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hoá kiệt xuất.
Ngày
nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập với thế giới, tư tưởng Hồ Chí
Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc Việt Nam, mãi mãi soi
đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Theo tư liệu của Bảo tàng Hồ Chí
Minh